Viết bài tập làm văn số 6 lớp 9 văn hay

Viết bài tập làm văn số 6 lớp 9 văn hay. Bài viết văn số 6 lớp 9. văn mẫu bài viết số 6 lớp 9 hay. nêu suy nghĩ của em về nhân vật trong tác phẩm
Bài số 6 lớp 9 đề 6 : Nêu suy nghĩ của em về nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao
Bài làm
Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,… Nam Cao là một cái tên không thể thiếu khi nhắc tới những nhà văn hiện thực nhân đạo. Tham gia vào dòng văn học 1930-1945 tuy là muộn so với các nhà văn khác nhưng bằng cách “khơi những nguồn chưa ai khơi” Nam Cao đã ghi vào lòng độc giả những ấn tượng riêng và có một vị trí đứng vững chắc. Ông viết rất nhiều tác phẩm như “Sống mòn”, “Một bữa no”, “Đời thừa”… nhưng không thể không kể tới tác phẩm “Lão Hạc”. Nhân vật Lão Hạc trong truyện là một nhân vật đã để lại trong người đọc ít nhiều suy nghĩ.
Lão Hạc là một lão nông nghèo nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.Nhân vật Lão Hạc là nhân vật điển hình, đại diện cho mỗi tầng lớp người nông dân rơi vào hoàn cảnh trớ trêu nhưng toát lên những vẻ đẹp tâm hồn sáng trong.

Lão Hạc có một cuộc đời hết sức bi thảm. Vợ lão mất sớm, một mình lão gà trống nuôi con. Đến tuổi anh con trai lấy vợ thì nhà lão nghèo quá, nhà gái lại thách cao, nên anh con trai không lấy được vợ, phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Lão ngày ngày, vò võ mong mỏi con về, đơn độc, chỉ có con chó Vàng - kỉ vật của con bầu bạn cùng. Lão sống qua ngày, trong cái đói nghèo và đơn độc. Và chính vì đói, vì nghèo như thế, nên cuối cùng, lão phải bán đi người bạn duy nhất của lão, chỗ dựa cuối cùng của lão – cậu Vàng. Để giữ được tấm lòng thanh sạch của mình, lão phải ăn bả chó tự tử, chết như một con chó. Cuộc đời của lão Hạc là một cuộc đời đơn độc, quay quắt trong cái đói nghèo, bị cái đói nghèo đày đọa. Nam Cao đã thông qua cuộc đời của lão Hạc để tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến, dồn đẩy người nông dân tới bước đường cùng bằng tiếng nói đanh théo, nhưng không kém phần chua xót.
Tuy ở một hoàn cảnh đáng buồn như vậy, nhưng lão Hạc có một tấm lòng vị tha, nhân hậu.Với cậu Vàng – kỉ vật của con trai lão, lão yêu quí nó như “một bà mẹ hiếm hoi yêu quý đứa con cầu tự”. Lão cưng nựng, vỗ về, vuốt ve nó; cho nó ăn cơm như nhà giàu ăn cơm bát; lão ăn gì cũng không quên phần nó, gắp cho nó một miếng, lão ăn bao nhiêu, nó cũng ăn như thế, thậm chí có phần hơn lão… Lão cũng coi nó như một người bạn, ngày ngày lão tâm sự, trò chuyện với nó như thể nó cũng là một con người. Lão đối với một con chó, một loài vật mà ông giáo cho là sinh ra để người ta giết thịt lại nhân hậu, yêu thương đến vậy thì với con người, lão con đối xử đến như thế nào nữa? Tấm lòng của lão quả thật khiến chúng ta cảm phục.
Đối với cậu Vàng, lão yêu quí như vậy, thì đối với anh con trai của lão, thì tình cảm ấy còn được nhân lên gấp vạn lần. Chỉ vì nhà nghèo, không cưới được vợ cho con, làm con uất chí, bỏ đi đồn điền cao su mà lão tự dằn vặt mình mãi. Để cưới vợ, anh con trai đòi bán mảnh vườn, nhưng lão không cho không phải vì lão muốn giữ mảnh vườn cho lão, mà lão nghĩ nếu cưới vợ về, vườn bán rồi thì ở đâu mà làm ăn sinh sống, và rồi có bán thì cũng làm sao mà đủ tiền. Lão nghĩ thế, nhưng anh con trai có thấu cho lão?Anh bỏ đi đồn điền cao su, để lại lão ở nhà vò võ chờ con.Lão nghĩ tốt, lo cho tương lai con, nhưng khi con trai bỏ đi, lão lại tự dằn vặt mình, đày đọa tinh thần mình.Những câu nói lão nói với cậu Vàng, nhưng lại chất chưa biết bao nhiêu tình cảm nhớ thương cho anh con trai. Lão nói với cậu Vàng đấy, nhưng lại như nói với con mình.Lão làm việc gì, lão suy nghĩ gì cũng là hướng về con trai mình. Tiền bòn vườn lão để dành, không tiêu tới để khi con trai về, lão nhẩm tính sẽ có gần trăm đồng bạc, thêm vào cho con cưới vợ và làm kế sinh nhai.Thế nhưng, lão lại ốm. Một cơn ốm kéo dài buộc lão phải tiêu tới số tiền đó.Chỉ vậy thôi mà lão đã thấy đau lòng.Lão ăn vào tiền của con trai lão – số tiền mà khi con trai về lão định trả con. Điều này làm lão khổ tâm hết sức. Hành động của lão gửi ông giáo mảnh vườn, nhờ ông giáo giữ hộ cũng là để giữ hộ cho con lão : “của mẹ nó thì nó hưởng”. Mọi suy nghĩ, việc làm của lão đều hướng tới con trai. Thậm chí, cái chết của lão cũng là vì con.Lão chết để mở ra đường sống cho con lão, lão chết một cái chết trong sạch để lại tiếng thơm cho con vì lão sống ngày nào là ăn vào tiền, vào đường sống của con ngày ấy. Xưa nay, không ít người cha, người mẹ hi sinh cơm ăn, áo mặc vì con, hi sinh một phần thân thể vì con nhưng hi sinh cả mạng sống của mình như lão Hạc lại là một trường hợp hiếm thấy. Tình yêu con của lão Hạc thật đặc biệt. Không ồn ào, sôi nổi, không thể hiện qua hành động hay lời nói, lão lặng lẽ yêu con trong tâm tưởng, mọi hành động của con lão đều cho là do lão. Là do lão đẩy con tới những hành động ấy rồi tự dằn vặt mình, tự gánh lấy những suy nghĩ, hành động để chuộc lại lỗi lầm. Quả thật, tình yêu thương con của lão khiến chúng thật vô cùng cảm động.
Lão Hạc mang một tấm lòng tự trọng cao cả. Lão tự trọng từ với một con chó, với con trai lão, với bà con hàng xóm, với ông giáo và với cả chính bản thân mình.Khi bán con chó, lão đau khổ, vì lão “bằng này tuổi đầu mà còn trót lừa một con chó”. Lão nhớ ánh mắt của cậu Vàng, mà theo như lời lão là một ánh mắt đầy trách móc, mắng lão tệ hại: “A!Lão già tệ lắm!Tôi ăn ở với lão thế mà lão đối xử với tôi thế này à?”. Ánh nhìn đó làm lão ám ảnh và day dứt không nguôi. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, lão lại chuẩn bị sẵn tiền làm ma cho bản thân, gửi ông giáo, để khi lão có việc thì ông giáo đưa ra, coi như là của lão có chút ít, còn lại thì nhờ bà con hàng xóm cả. Lão làm vậy để không phiền lụy tới ai. Từ đó, lão bòn vườn, mò cua,ốc, trai ăn để sống qua ngày, thà chết chứ không chịu mắc nợ ai. Có lẽ hành động bán cậu Vàng của lão chính là bước chuẩn bị cho cái chết của lão. Lão xin Binh Tư ít bả chó với lý do bắt cho nhà khác – một lý do làm Binh Tư tự nghĩ lão giả bộ hiền lành thế nhưng cũng ghê ra phết, một lý do làm ông giáo hiểu lầm lão, hiểu lầm một con người đã “khóc vì trót lừa một con chó, một con người nhịn ăn để có tiền làm ma”.Vậy nhưng hóa ra, lão ăn bả chó để tử tự, để giữ vẹn nguyên tấm lòng trong sáng của lão. Lão ăn bả chó, lão chết như một con chó, vật vã, quằn quại trong đau đớn, để chuộc tội với cậu Vàng. Lão ăn bả chó cũng là để không bị cuộc sống dồn đẩy, bị tha hóa biến chất như Binh Tư, hay Chí Phèo… Cái chết của lão cũng chính là sự tự trọng của lão với con lão. Lão sống mà phải dựa vào tiền của con thì thà lão chết con hơn. Lão Hạc có một tấm lòng thật đáng. Lão Hạc có một tấm lòng thật đáng trân trọng – lòng tự trọng của lão nông nghèo nhưng trong sạch. Lão chọn “chết trong còn hơn sống đục” khi bị dồn vào đường cùng.Tấm lòng nhân đạo của Nam Cao đã được thể hiện rất rõ. Thông qua cuộc đời bi thảm, nhưng phẩm chất thì sáng trong của lão Hạc, Nam Cao quả đã “khơi được những nguồn chưa ai khơi” và chính điều này đã đưa ông lên một vị trí vững chắc trong dòng văn học 1930-1945.
Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc. Đây là một nhân vật điển hình, đại diện cho tầng lớp những người nông dân trong xã hội cũ: tuy đói nghèo nhưng có những phẩm chất cao đẹp. Nam Cao đã rất thành công trong cách xây dựng nhân vật. Thông qua cái nhìn ông giáo – một nhà trí thức, Nam Cao đã gián tiếp thể hiện tấm lòng của mình với người nông dân và đặt ra vấn đề “đôi mắt”: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương...”. Tác giả cũng đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật rất rõ nét. Tâm lý nhân vật lão Hạc được thể hiện qua những hành động, lời nói của lão, nhiều đoạn đối thoại mà như độc thoại. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng nhiều khẩu ngữ, làm câu chuyện chân thực, sinh động, gần gũi với người nông dân.
Nhân vật lão Hạc quả thật đã để lại trong lòng người đọc ít nhiều suy nghĩ. Qua đó cũng thể hiện tài năng,tấm lòng của Nam Cao. Phải là một cây bút xuất sắc, một nhà văn thấu hiểu, am tường về người nông dân tới tận cùng, dành cho họ những tình cảm yêu mến, trân trọng cảm thông sâu sắc mới viết nên một truyện ngắn hay như thế. Với một nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên, Nam Cao đã khẳng định được tên tuổi của mình. Ông đã “khơi được những nguồn chưa ai khơi” và ghi lại trong lòng độc giả những tình cảm yêu mến.


Bài số 6 lớp 9 đề số 2 : Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện “Chiếc lược ngà"
Bài làm
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một truyện cảmđộng về tình cha con của những gia đình Việt Nam mà ở đó “lớp cha trước, lớpcon sau, đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Trong truyện đoạn cảm độngnhất là đoạn “ba ngày nghỉ phép về quê của anh Sáu”.
Năm 1946, năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, anh Sáu lên đường theo tiếnggọi của quê hương. Bấy giờ, bé Thu, con gái anh chưa đầy một tuổi. Chín nămđằng đẳng xa quê, xa nhà, anh Sáu vẫn mong có một ngày trở về quê gặp lại vợcon. Thế rồi, kháng chiến thắng lợi, anh được nghỉ 3 ngày phép về thăm quê, mộtlàng nhỏ bên bờ sông Cửu Long. Về đến nhà, anh tưởng tượng bé Thu - con gái anhsẽ rất vui mừng khi được gặp cha. Giờ đây, nó cũng đã mười tuổi rồi còn gì. Mangmột nỗi niềm rạo rực, phấn chấn, anh nôn nóng cho mau về đến nhà.
Không chờ xuồng cập bến, anh đã nhảy lên bờ vừa bước, vừa gọi: “Thu! Con!” thậttha thiết. Ta co thể tưởng tượng nỗi vui sướng của anh như thế nào. Khi anh vừabước đi, vừa lom khom người xuống đưa tay chờ con. Thế nhưng ngược lại vớinhững điều anh Sáu mong chờ.
Bé Thu tròn mắt nhìn anh ngạc nhiên rồi bỏ chạy. Phản ứng của bé Thu khiến anhSáu sửng sờ, đau khổ. Còn gì đáng buồn hơn khi đứa con mà anh hết lòng thươngyêu và khắc khoải từng ngày để được gặp mặt, giờ đây trở nên xa lạ đến mức phũphàng ấy.
Thế rôì, anh Sáu tìm mọi cách gặp con để làm quen dần vì anh nghĩ rằng khi anhđi nó vừa mấy tháng tuổi nên nó lạ. Anh mong sao nó gọi một tiếng “ba”, vào ăncơm nó chỉ nói trống không “Vô ăn cơm!”
Bữa sau, cũng là ngày phép thứ hai, bé Thu trông hộ mẹ nồi cơm để chị Sáu chạymua thức ăn. Trước khi đi, chị Sáu dặn nó có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nồicơm quá to mà bé thu thì còn nhỏ, vậy mà khi nồi cơm sôi không tìm được cáchnào để chắt nước, loay hoay mãi, nó nhìn anh Sáu một lúc rồi kêu lên: “Cơm sôirồi, chắt nước dùm cái!” anh Sáu vẫn ngồi im, chờ đợi sự thay đổi của nó. Thếnhưng, nó nghĩ ra cách lấy vá múc ra từng vá nước chứ nhất định không chịu gọianh Sáu bàng “Ba”. Con bé thật đáo để!
Đến bữa ăn cơm, anh Sáu gắp cho bé Thu một cái trứng cá to, vàng bỏ vào chén.Lúc đầu nó để đó rồi bất thần hất cái trứng ra làm cơm đổ tung toé. Giận quá,không kìm được nữa, anh Sáu vung tay đánh vào mông nó. Thế là bé Thu vội chạyra xuồng mở “lòi tói” rồi bơi qua sông lên nhà bà ngoại.
Phép chỉ còn ngày cuối cùng, anh Sáu phải trở về đơn vị để nhận nhiệm vụ mới.Bao nhiêu mơ ước được hôn, ôm con vào lòng từ bấy lâu nay của anh Sáu giờ chỉcàng làm cho anh thêm đau lòng và gần như anh không còn để ý đến nó nữa.
Thân nhân, họ hàng đến chia tay anh cũng khá đông nên anh cứ bịn rịn mãi. ChịSáu cũng lo sắp xếp đồ đạc cho chồng, không ai quan tâm bé Thu đang đứng bơ vơmột mình bên cửa nhà. Thì ra nó theo bà ngoại trở về vì bà ngoại sang đây đểtiễn chân anh Sáu. Giờ này, trên gương mặt Thu không còn cái vẻ bướng bỉnh,ương ngạnh nữa , mà thoáng một nét buồn trông đến dễ thương. Nó nhìn mọi người,nhìn anh Sáu. Đến lúc mang ba lô và bắt tay với mọi người, anh Sáu mới nhìnquanh tìm bé Thu. Thấy con, dường như mọi việc trong ba ngày phép hiện lêntrong anh nên anh chỉ đứng nhìn con với bao nỗi xót xa ... cuối cùng, anh cũngphải nói lên lời chia tay với con mà không hy vọng bé Thu sẽ gọi một tiếng “ba”thiêng liêng ấy.Thật là đột ngột và không ngờ, bé Thu chạy đến bên anh Sáu vàtiếng “Ba!” được thốt lên thật cảm động biết nhường nào. Nó ôm chầm thật chặtnhư không muốn rời ba nữa. Nó khóc, khóc thật nhiều và thét lên những lời khiếnmọi người xung quanh đều xúc động: “Không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con!”
Sung sướng, hạnh phúc và cũng thật đau lòng, anh Sáu cũng chỉ biết ôm con vàkhóc cùng với con. Rồi cũng đến lúc phải chia tay, thật bịn rịn vô cùng. Vừamới nhận được tiếng “ba” của đứa con thân yêu cũng là lúc phải nghẹn ngào chiatay với con để trở về đơn vị làm tròn trách nhiệm khi đang ở quân ngũ.
Trước kia anh Sáu đã thương con, giờ đây anh càng thương con gấp bội. Bởi lẽanh đã hiểu lí do vì sao bé Thu quyết định từ chối không gọi anh bằng “ba” từba hôm nay.
Làm sao chấp nhận một người xa lạ mà khuôn mặt không giống trong tấm ảnh mà mẹnó thường ngày vẫn nói với nó đó là “ba” được. Chính vết sẹo quái ác kia đã làmcho bé Thu không nhận anh Sáu, hằn học với anh Sáu. Sau khi hiểu rõ nguyên nhâncủa vết sẹo hằn trên gương mặt của ba, bé Thu mới thấy hổ thẹn và ăn năn. Tìnhcảm cha con bỗng dâng đầy, tràn ngập trong lòng em. Tình cảm đó được thể hiệnbằng thái độ, cử chỉ dồn dập, gấp rút khi nó gọi và ôm chầm lấy anh Sáu."> Ba ngày phép ngắn ngủi nhưng lại rấtngặng nề với anh Sáu và bé Thu. Nghịch cảnh này là một trong muôn ngàn nghịchcảnh khác mà đã có biết bao gia đình phải ngậm ngùi vì những ngộ nhận đángthương. Đó cũng là một sự thật đau lòng của nước Việt Nam ta trong những năm kháng chiếnchống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Bài số 6 lớp 9 đề số 5 : Truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân VN thời kháng chiến chống thực dân Pháp?
Bài Viết SỐ 6 Lớp 9
Viết bài tập làm văn số 6 về tác phẩm Làng của Kim Lân

Bài làm
“Làng quê”, hai tiếng thật êm đềm và thân thuộc biết bao. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ hướng ngòi bút của mình về giếng nước, gốc đa, con đò… hướng về những người nông dân thật thà, chất phác. Kim Lân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn và khai thác rất thành công về đề tài này. Truyện ngắn “Làng” là một truyện ngắn thành công của Kim Lân gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Kim Lân vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống và con người ở nông thôn Việt Nam nên các truyện gắn của ông thường gây ấn tượng độc đáo, rất giản dị, chân chất về đề tài này. Truyện ngắn Làng cũng vậy, truyện ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc. Câu truyện xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu làng Chợ Dầu. Với những chuyển biết trong nhận thức và suy nghĩ, ông Hai đã trở thành một điển hình của người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
Như bao con người Việt Nam khác, ông Hai cũng có một quê hương yêu thương, gắn bó. Làng Chợ Dầu luôn là niềm tự hào và là kiêu hãnh của ông. Ông luôn khoe về làng mình, đức tính ấy như đã trở thành bản chất. Ông cũng như mọi người nông dân Việt Nam khác, có quan niệm rằng “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, đối với họ, không có bất cứ đâu đẹp hơn nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trước cách mạng, mỗi khi kể về làng, ông đều khoe về cái sinh phần của viên tổng đốc sừng sững ở cuối làng. Sau Cách mạng, làng ông đã trở thành làng kháng chiến, ông đã có nhận thức khác. Ông Hai không còn khoe về cái sinh phần ấy nữa mà ông lấy làm hãnh diện với sự cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê mình. Ông khoe làng có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”… Kháng chiến bùng nổ, ông Hai bất đắc dĩ phải rời làng đi tản cư. Trong những ngày buộc phải rời xa làng tâm trí ông luôn nhớ về nơi ấy, về những anh em đồng chí của mình, ông muốn “cùng anh em đào đường, đáp ụ, xẻ hào,khuân đá…’’.
Ở nơi tản cư, ông luôn đến phòng thông tin để theo dõi và mong ngóng tin tức về làng nhằm nguôi ngoai nỗi nhớ. Trong lúc mong tin làng, những tin vui chiến thắng ở khắp nơi khiến ông vui sướng vô cùng, “ruột gan cứ múa cả lên”. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà đi tản cư, ông Hai vô cùng sửng sốt, “cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được” . Đến khi nghe kể rành rọt, không thể không tin vào điều xấu ấy, niềm tin và tình yêu bấy lâu nay của ông về làng như sụp đổ. Ông đã “gầm mặt xuống”, đánh trống lảng rồi bước đi như kẻ trốn nợ. Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người nhưng lại không tin họ theo giặc. Mấy hôm liền, ông không dám đi đâu vì xấu hổ, luôn bị ám ảnh cái tinh khủng khiếp ấy và hay hốt hoảng giật mình. Những ngày này mâu thuẫn nội tâm trong con người ông Hai diễn ra một cách quyết liệt và ngày càng dâng cao. Đã có lúc ông nghĩ đến việc “quay về làng” nhưng ông đã dứt khoát “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tuy quyết định như thế nhưng ông vẫn rất đau đớn xót xa. Tất cả những cử chỉ của ông Hai khẳng định tình yêu làng của ông đã hòa quyện vào cuộc kháng chiến của dân tộc và ông sẽ gắn bó cả cuộc đời với nó bằng suy nghĩ và hành động. Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông trút nỗi lòng vào lời nói với đứa con út ngây thơ: “Bố con mình theo kháng chiến, theo Cụ Hồ con nhỉ?” để giãi bày tâm sự, trút bỏ, an ủi lòng mình. Đồng thời, ông cũng truyền cả tình yêu nước sang cho con mình và khẳng định tình cảm của bố con ông với kháng chiến, với Cụ Hồ là trước sau như một.
Đau khổ là thế, lo âu là thế nhưng cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính. Niềm vui trong ông Hai như vỡ òa. Ông chạy đi khoe ngay với bác Thứ rồi gặp bất cứ ai ông cũng khoe Tây đã đốt nhà mình như muốn chứng minh làng mình không theo giặc với tất cả niềm tin và tình cảm của ông. Đối với ông hai cũng như mọi người nông dân khác, con trâu, mảnh ruộng, gian nhà là vô cùng quý giá nhưng họ thà mất đi tất cả chứ không chịu mất nước và ý chí ý đã trở thành một truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta.
Cách mạng và sự nghiệp kháng chiến đã tác động mạnh mẽ, đem lại những nhận thức, những tình cảm mới lạ cho những người nông dân. Từ đó khiến họ nhiệt tình tham gia kháng chiến và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào lãnh tụ. Ở nhân vật ông Hai, tình cảm đẹp đẽ có tính chất truyền thống của người nông dân Việt Nam là tình yêu làng quê đã được nâng lên thành tình yêu nước. Sự hòa quyện và gắn bó của tình yêu quê hương và tình yêu đất nước là nét mới mẻ trong nhận thức của người nông dân, của quần chúng cách mạng trong giai đoạn văn học chống Pháp.
Với kếu cấu đơn giản, xoay quanh nhân vật ông Hai với tình yêu làng sâu sắc, “Làng” đã để lại trong lòng người đọc nhiều ý vị sâu sắc. Làng Nhà văn Kim Lân đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai với các phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Đồng thời nhà văn còn khôn khéo xây dựng tình huống thử thách làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả đặc biệt tài tình nội tâm của nhân vật với những suy nghĩ phức tạp, giằng xé. Tác giả đẩy các chi tiết đến cao trào rồi giải quyết một cách nhẹ nhàng, thỏa đáng và có hậu, tạo hứng thú và bất ngờ cho người đọc, người nghe. Cách sử dụng từ ngữ địa phương mộc mạc, gần gũi với nông dân trong đối thoại, giao tiếp kết hợp với sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ khiến những trang viết của Kim Lân thật gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc.
Nhân vật ông Hai gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại nhiều tình cảm tốt đẹp, sự yêu mến, trân trọng và cảm phục trong lòng người đọc. Tình yêu làng của ông Hai mang tinh chất truyền thống đã được nâng lên thành tình yêu nước nồng nàn như “ dòng suối đổ vào sông, dòng sông đổ vào dải trường giang Vônga, dòng sông Vônga đi ra biển..”. Qua nhân vật ông Hai như là nông dân với những phẩm chất tốt đẹp bước từ đời thực vào tác phẩm, có được những biểu hiện cụ thể, sinh động vè tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.
“Làng” đã trở thành một truyện ngắn đặc sắc, Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện những chuyển biến mới mẻ trong nhận thức và tình cảm của người dân Việt Nam. Nhân vật ông Hai đã trở thành một hình tượng điển hình cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác nhưng luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, yêu đất nước. Họ đã góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng và là nhân tố trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bản thân mỗi chúng ta cần phải học tập tấm gương của họ, ngày càng yêu thương quê hương, đất nước mình hơn.

Chúc các bạn làm bài thật tốt ! Đạt điểm cao .

Ngoài các bài viết văn mẫu cho bài số 6 lớp9 ở trên các bạn có thể đọc thêm các dàn ý của các đề còn lại đề có thể làm bài tốt hơn :
HƯỚNG DẪN VIẾT BÀI Số 6 Lớp 9 Văn Nghị Luận
Đề 1: Suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong đoạn trích “Tronglòng mẹ” ( “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng ).
I. Mở bài:
- “Những ngày thơ ấu” – cuốn hồi kí tự truyện ghi lại nhữngtâm sự về một tuổi thơ cay đắng, bất hạnh của Nguyên Hồng.
- Đoạn trích “Trong lòng mẹ” đã mang đến cho người đọc nhữngtrang viết cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng.
II. Thân bài:
1. Hoàn cảnh đángthương của bé Hồng:
- Mồ côi cha từ nhỏ, mẻ bất đắc dĩ phải đi tha hương cầuthực.
- Sống trong sự ghẻ lạnh của người cô, luôn thiếu thốn tìnhyêu thương.
- Vô cùng nhớ mẹ, khát khao được gặp mẹ.
2. Tình mẫu tử củamẹ con bé Hồng:
a. Tình yêu thươngcủa bé Hồng dành cho mẹ:
* Khi mẹ đi xa:
- Đau đớn, xót xa, nhớ mẹ.
- Càng thường mẹ hơn khi người cô đay nghiến, nói xấu mẹ.
- Luôn tin tưởng rằng “những rắp tâm tanh bẩn” không thể làmthay đổi tình cảm mà em dành cho mẹ.
- Thương mẹ vô cùng ( khi nghe thấy mẹ phải sống trong nghèokhổ, khi thấy mẹ không dám vượt lên trên những hủ tục nặng nề để sống đànghoàng).
- Căm giận những hủ tục phong kiến chà đạp lên quyền đượchưởng hạnh phúc của con người.
* Khi mẹ trở về:
- Mừng khôn xiết ( mới chỉ nhìn thấy “thoáng qua” một ngườiphụ nữ đang ngồi trên mà đã nghĩ ngay đó là mẹ mình, em gọi mẹ, chạy theo mẹ).
- Hạnh phúc tột cùng khi được ngồi trong lòng mẹ.
b. Tình yêu thươngcủa mẹ dành cho bé Hồng:
- Vượt lên trên dư luận, trở về trong ngày giỗ đầu của chồngđể được gặp con.
- Vui mừng khôn xiết khi được ôm con vào lòng, âu yếm con.
- Mong muốn được chăm sóc, yêu thương con.
3. Suy nghĩ vềtình mẫu tử:
- Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng, sâu sắc, mãnhliệt.
- Là tình cảm thiêng liêng của mỗi con người.
- Trong hoàn cảnh éo le, tình mẫu tử càng trở nên sâu sắc vàcảm động hơn: Nó vượt lên cảnh ngộ, nó bất chấp sự dập vùi, nó chân thành vàgiản dị, nó đem hạnh phúc và niềm tin đến cho con người trong cảnh đời khốnkhổ, trái ngang.
III. Kết bài:
- Đoạn trích cho ta biết cảm thông, chia sẻ với những ngườisống thiếu tình yêu thương của mẹ.
- Ta thêm trân trọng mẹ, trân trọng tình yêu thương của mẹ.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề 2: Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em những suynghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Namthời kháng chiến chống thực dân Pháp?
I. Mở bài:
- Kim Lân – nhà văn thành công về đề tài người nông dân ViệtNamtrước Cách mạng.
- Truyện ngắn “Làng” đã thể hiện sâu sắc tình yêu làng, yêunước, yêu cách mạng của những người nông dân Việt Nam, thể hiện “những chuyểnbiến mới” trong tình cảm của họ.
II. Thân bài:
1. Giải thích“chuyển biến mới” trong tình cảm của người nông dân: tình cảm yêu làng, yêunước của người dân quê Việt Nam trong không chiến chống Pháp đã có những nétmới mẻ so với những tình cảm truyền thống ( yêu làng gắn với yêu nước, tích cựctham gia kháng chiến, theo Cụ Hồ, đánh đuổi bọn Tây, tiêu diệt bọn Việt gianbán nước – đó là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước).
2. Những biển hiện của những “chuyển biến mới” trong tình cảm củangười nông dân:
a. Ở nhân vật ôngHai: (tình yêu làng quê gắn với tình yêu đất nước)
- Thể hiện trong cách khoe làng mới mẻ (kiêu hãnh, tự hào vềviệc làng theo kháng chiến, tích cực tham gia kháng chiến…).
- Thể hiện bằng hành động cụ thể ( tham gia tự vệ để bảo vệlàng, đào hào, đắp ụ phục vụ kháng chiến, đi tản cư, hăng say sản xuất…).
- Nhớ làng khi đi tản cư, mong được trở về cùng du kích lậplàng kháng chiến.
- Lắng nghe tin tức kháng chiến: đau đớn, tủi nhục khi nghetin làng giặc; căm thù làng khi nghe tin làng theo Tây (“Làng thì yêu thật,nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”); sung sướng , hả hê khi nghe tin cảichính ( khoe nhà bị Tây đốt…).
b. Ở những nhânvật phụ:
- Những người phụ nữ tản cư: khinh bỉ những kẻ theo giặc“cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.
- Thằng cu Húc dù còn nhỏ đã có tinh thần kháng chiến “ủnghộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm”.
- Mụ chủ nhà khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc thì đuổikhéo gia đình ông Hai, khi nghe tin cải chính thì vui vẻ, thân thiện, cởi mở,mời mọc…
3. Suy nghĩ vềnhững “chuyển biến mới” trong tình cảm của người nông dân:
- Chuyển biến tình cảm phù hợp với nhận thức, với chuyểnbiến của thời đại, với yêu cầu của công cuộc giữa nước ( tình cảm yêu nước rộnglớn hơn, bao trùm tình yêu làng quê, yêu nước gắn với yêu kháng chiến, ủng hộkháng chiến…)
- Cảm động trước tình cảm yêu làng, yêu nước chân thành củanhững người nông dân chất phác, hồn hậu.
- Trân trọng lòng trung thành tuyệt đối với Cách mạng, vớiCụ Hồ, với kháng chiến.
- Yêu làng, yêu quê hương, đất nước – đó là tình cảm thiêngliêng của mỗi con người.
- Trong hoàn cảnh chiến tranh, tình yêu làng, yêu nước càngtrở nên sâu sắc và cảm động hơn.
- Tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng tạo nên sức mạnh,nghị lực, niềm tin để con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
III. Kết bài:
- Những chuyển biến mởi mẻ trong tâm hồn những người nôngdân trong kháng chiến chống Pháp càng giúp ta thêm hiểu, thêm trân trọng vẻ đẹptâm hồn của những con người mộc mạc, giản dị…
- Họ đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng chung của toàndân tộc.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề 3: Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hộicũ qua nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
I. Mở bài:
- Từ xa xưa, người phụ nữ đã trở thành một đề tài quen thuộctrong các tác phẩm văn chương, trong ca dao, trong những truyện dân gian.
- Đến văn học trung đại: hình ảnh người phụ nữ đã được thểhiện cụ thể, sâu sắc hơn. Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người congái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn và sốphận đầy đau khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
II. Thân bài:
1. Vũ Nương làngười phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời lại đầy đau khổ, bất hạnh:
- Là một người phụ nữ đẹp: vẻ đẹp hình thức (tư dung tốtđẹp); vẻ đẹp nhân cách ( yêu thương và thủy chung với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng,thương con, hết lòng chăm lo hạnh phúc gia đình).
- Phải chịu những đau khổ, bất công, ngang trái: bị chồngnghi oan mà không nghe nàng thanh minh, giãi bày; bị mắng nhiếc thậm tệ rồiđuổi đi, đau khổ tột cùng, nàng phải tìm đến cái chết.
- Không tự bảo vệ được hạnh phúc của mình.
2. Suy nghĩ vềthân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
- Sống cam chịu, nhẫn nhục…(sự cam chịu, nhẫn nhục càng làmcho những bất công, ngang trái đè nặng lên cuộc đời, số phận của họ).
- Không thể quyết định được tương lai và hạnh phúc của mình( Vũ Nương, người phụ nữ trong “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, Thúy Kiềutrong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du…)
- Hiểu nguyên nhân gây ra nỗi bất hạnh cho họ ( chế độ đathê, tư tưởng trọng nam khinh nữ, chiến tranh…đã gây ra những bất hạnh, oantrái…cho người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, trong “Chinh phụ ngâm” của ĐoànThị Điểm…).
- Cảm thương cho số phận đau khổ, bất hạnh của những ngườiphụ nữ trong xã hội phong kiến.
III. Kết bài:
- Qua cuộc đời, số phận đầy đau khổ của Vũ Nương, người đọccàng hiểu hơn những bất hạnh, oan trái mà người phụ nữ phải chịu đựng trong xãhội phong kiến.
- Liên hệ với hiện tại: người phụ nữ ngày càng được bìnhđằng, được tôn trọng…từ đó, thêm trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sốnghiện tại.
- Mơ ước về tương lai: Người phụ nữ không còn phải chịunhững bất công, đau khổ…
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề 4: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranhqua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
I. Mở bài:
- Tình cảm gia đình là những tình cảm thân thương, gắn bótrong tâm hồn của mỗi con người, nó đã trở thành một đề tài quen thuộc trongvăn học.
- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là bàica về tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc.
II. Thân bài:
1. Tình cảm củacha con ông Sáu:
a. Chiến tranh đãgây ra cảnh chia li cho gia đình ông Sáu:
- Ông Sáu đi kháng chiến khi đứa con đầu lòng ( bé Thu )chưa đầy một tuổi.
- Ở chiến khu, ông nhớ con nhưng chỉ được nhìn con qua tấmảnh nhỏ.
- Bé Thu dần lớn lên trong tình yêu của má nhưng em chưa mộtlần được gặp ba, em chỉ biết ba qua tấm hình chụp chung với má.
b. Chiến tranh đãkhông thể chia cắt được tình cảm gia đình, tình phụ tử thiêng liêng:
* Bé Thu rất yêuba:
- Em cương quyết không nhận ông Sáu là cha ( khi thấy ôngkhông giống với người trong tấm hình chụp chung với má).
- Em phản ứng một cách quyết liệt, thậm chí còn xấc xược,bướng bỉnh ( để bảo vệ tình yêu em dành cho ba…).
- Em ân hận trằn trọc không ngủ được khi được ngoại giảnggiải.
- Lúc chia tay, em gọi “ba”, hôn cả lên vết thẹo dài đã từnglàm em sợ hãi, em không cho ba đi…
* Ông Sáu luôndành cho bé Thu một tình yêu thương đặc biệt:
- Khi xa con, ông nhớ con vô cùng.
- Khi được về thăm nhà, ông không đi đâu, chỉ quanh quẩn ởnhà để được gần con.
- Ông vô cùng đau khổ khi thấy con lạnh lùng ( khi con cươngquyết không chịu gọi “ba”).
- Ông dồn hết tình yêu thương con vào việc tự tay làm chiếclược ngà cho con.
- Ân hận vì đã đánh con.
- Trước khi nhắm mắt, ongo cố gửi cho con kỉ vật cuối cùng…
2. Suy nghĩ vềtình cảm gia đình trong chiến tranh:
- Cảm động trước tình cha con sâu nặng.
- Là tình cảm thiêng liêng của mỗi con người.
- Trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, tình cảm gia đìnhcàng được thử thách càng trở nên thiêng liêng hơn.
- Tình cảm gia đình tạo nên sức mạnh, nghị lực, niềm tin đểcon người vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
- Tình cảm gia đình, tình cha con đã hòa quyện trong tình yêuquê hương đất nước.
III. Kết bài:
- “Chiếc lược ngà” – một câu chuyện xúc động về tình phụ tửthiêng liêng trong chiến tranh.
- Câu chuyện thêm một lần nữa khẳng định tình cảm gia đình,tình cha con…luôn bất diệt trong mọi hoàn cảnh.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề 5: “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là mộttruyện ngắn giàu chất thơ.
I. Mở bài:
- Nguyễn Thành Long – cây bút chuyên viết truyện ngắn và kíthành công với những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng.
- “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970, làmột truyện ngắn thành công bởi đã để lại trong lòng độc giả những rung cảm khóquên về một truyện “giàu chất thơ”.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu ngắngọn nội dung của tác phẩm:
“Lặng lẽ Sa Pa” kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa các nhân vật:ông họa sĩ, cô kĩ sư, anh thanh niên làm công tác khí tượng thủy văn kiêm vậtlí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m.
2. Chất thơ củatruyện:
a. Vẻ đẹp củathiên nhiên Sa Pa: được tái hiện một cách sinh động, thơ mộng ( hìnhảnh những cây thông rung tít trong nắng như những ngón tay bằng bạc, mây cuộntròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương…; ngôn ngữ miêu tả thiên nhiênrất gợi cảm, giàu chất tạo hình càng làm tăng thêm vẻ đẹp thơ mộng của cảnh,…)
b. Vẻ đẹp tâm hồncủa những con người bình dị:
- Nhân vật anh thanh niên: yêu cuộc sống ( yêu cái đẹp, sốngngăn nắp, trồng hoa…); tấm lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm cao với côngviệc; anh hiểu được ý nghĩa của công việc mình làm; khiêm tốn, anh luôn quantâm tới người khác một cách tự nhiên, chân thành…
- Các nhân vật phụ xuất hiện trực tiếp ( ông họa sĩ, bác láixe, cô kĩ sư): tâm hồn tinh tế, nhạy cảm; sự quan tâm tới mọi người,…
- Các nhân vật phụ xuất hiện gián tiếp qua lời giới thiệucủa anh thanh niên ( anh cán bộ nghiên cứu sét, bác kĩ sư nông nghiệp…): tựnguyện hi sinh hạnh phúc riêng của mình vì lợi ích chung của cộng đồng; niềmsay mê công việc…
III. Kết bài:
Vẻ đẹp của thiên nhiên, con người Sa Pa đã tạonên chất thơ, sức hấp dẫn cho truyện.
Bài viết số 6 lớp 9 đề 1: Truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân VN thời kháng chiến chống thực dân Pháp?

Bài làm

Kim Lân là nhà văn rất am hiểu cuộc sống của người nông dân ở nông thôn miền Bắc. Tất cả các truyện của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện Làng được Kim Lân sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp chí văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính của truyện là hình ảnh tiêu biểu và chân thực của người nông dân trong mới ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, với lòng yêu làng, yêu nước sâu sắc, với sự hồ hởi say mê, tin yêu, chung thuỷ với kháng chiến, với Bác Hồ.
Ông hai nhân vật chính trong truyện là một người yêu làng, yêu nước tình yêu làng của ông có những nét đặc sắc, riêng biệt được thể hiện thành một đức tính đáng quý.
Là một nông dân suốt cuộc đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từngcon đường, từngnếp nhà, thửa ruộng, từngngọn cỏ, cành cây và biết bao người ruột thịt , xóm giềng, họ hàng gần xa, vậy mà giờ đây vì giặc ngoại xâm, ông 2 phải xa rời quê hương đi tản cư, sống nhờ nơi đất khách quê người. Do đó lòng ông đau đáu nhớ quê. Ban ngày lo bận việc sản xuất, ổn định cuộc sống, chiều rồi buổi tối ông hai lại sang haàg xóm giãi bày nỗi nhớ của mình. Trong câu chuyện, ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê hương mình. Làng Chợ Dầu quê ông đẹp lắm, đường là phong quang sạch sẽ, cái cổng làng rộng như cổng thanh… Ông khoe cả cái “sinh phần”- lăng mộ- của viên tổng đốc người làng, mặc dầu đó là một chứng tích đau khổ của dân làng, trong đó có ông. Đặc biệt là ông hai khoái nhất khoe và kể nhiều nhất là những ngày đầu CMT8. Quê hương được giải phòng, thoát khỏi ách cươờghào phong kiến và lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Đêm đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ em học bài… lại cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân… nghe những chuyện ấy, mọi người đều thông cảm với lòng nhớ quê da diết của ông. Không chỉ nhớ mà ông còn luôn tự hào, cho rằng làng chợ Dầu của ông đẹp nhất nhfi thiên hạ. Đó là một người yêu quê hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên , hồn nhiên. Tình cảm đó bắt nguồn từ nững kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày,từ những sự vật, con người gắn bó hàng ngày … Tình cảm đó thuầnphác và trong sáng biết bao.
Khi nghe tin làng chợ dầu theo Tây ông hai “cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân” . Trước hết là sự xót xa của ông về làng mình , sự phản bội của nơi chôn rau cắt rốn của mình . Ông lão tủi hổ, bàng hoàng trước sự việc đó . Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng chợ Dầu vẫn là nới ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện , tự hào. Vaỵa mà bây giờ… ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó ông gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng chợ Dầu loé lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm . Từ lau ông yêu làng ông, mong được trở về với làng ông song trong ông tình yêu nước mạnh hơn , thiêng liêng hơn: không vì làng mà bro nước, bỏ kháng chiến. Giưũa sự giằng co trong tâm hồn , ông hai đã thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết tâm: “Làng thì yêu thật đấy , nhưng làng theo Tây thì phải thù .. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông, cái lòng bố con ông là như thế đấy , có bao giờ dám đơn sai. Chết thì bao giờ dám đơn sai.” Khi ông tâm sự với con, ông Hai muốn bảo connhớ câu”nàh ta ở làng chợ dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc mình “Ủng hộ Hồ CHí MInh”. Tình quê và lòng yêu nước của những người nông dân ấy rất sâu nặng và thiêng liêng biết bao. Ông hai đã trải qua những buồn vui, đau khổ, những tự hào, chua chát, những nguyện vọng và hi vọng… hài hoà , gắn bó giưũa quê hương và tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiên gian khổ ấy thì cách mạng đã đổi đời cho những người nhân dân như ông, ông nguyện đi theo và trung thành với cách mạng. Gặt sangmột bên tình cảm riêng của mình mà đi theo kháng chiến, không chịu theo Tây, sống với Tây. Tình cảm gắn bó với cách mạng , với Bác Hồ của những người nông dân như ông nó chất phác, mộc mạc, sâu sắc, nó xuất phát từ đáy lòng, máu thịt.
Thấy được tình yêu làng, yêu nước của ông hai, ta hiểu và cũng mừng cho sự hớn hở của ông hai khi ngeh tin làng mình theo Tây được cải chính. Tình yêu làng , tình yêu nước lại trở về gắn bó với nhau ngày càng sâu sắc, thắm thiết hơn trong lòng người nông dân chân chất này. Từ ngày ông hai không pảhi dằn vặt trong sự lựa chọn khắc nghiệt giữa làng và nước, cái vui của ông hai là cái vui của một con người yêu quê hương, đất nước sâu sắc. niềm vui khiến ông lão như trẻ con” lật đật,bô bô” kể về làng mình bị đốt nhẵn. Nhà của ông bị cháy rụi mà ông không để í, không đau buồn, ông chỉ biết rằng lúc này ông làm kháng chiến và ông lão bây giờ có thể tự hào, hãnh diện ngồi kể về cái làng chợ dầu kháng chiến của mình.
Vốn là những con người chân thực, chất phác, những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng họ vẫn có sự bỡ ngỡ và lạ lẫm ban đầu. Cảm giác ấy nhanh chóng tan đi , người ông dân đón nhận cách mạng với một tình cảm chân thành một lòng hăm hở. Cuộc đời nông dân Việt Nam rẽ sang một bước ngoặt mới tươi sáng hơn. Họ nô nức, háo hức hoà chung vào phong trào cách mạng cả nước, họ hăng hái cầm súng bảo vệ quê hương. Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nông dân, có những người như ông hai day dứt, tủi hổ, khổ sợ khi mình bị hiểu lầm là không trung thành với cách mạng song vẫn không bỏ cách mạng. Đó là lòng trung thành , là tình cảm sâu sắc, bền chặt mà người nông dândành cho cách mạng. Cách mạng Tháng Tám đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh trong lòng họ. người nông dân đứng lên kiên quyết giữ làng, giữ nước , đâu còn là hình ảnh con người khổ nhục,khiếp sợ từ tên đầy tớ nhà giàu. Họ- những người như ông hai đứng lên đào hào, đắp luỹ trực tiếp chống lại quân thù . Lòng yêu nước nồng nàn, sự trung thành với cách mạng tất cả trở thánh sức mạnh khiến họ đứng lên bảo vệ quê hương, bảo vệ chính mình. Cách mạng mang đến cho họ cuộc đời mới, họ phải bảo vệ lấy hạnh phúc đó của mình.
Vẻ đẹp tâm hồn của ông hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam tuy trình độ văn hoá thấp nhưng đã có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Nói cách khác, quê hương- Tổ quốc đối với mỗi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự hào nồng thắm! Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trongtình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà vănhọc thời kháng chiến chống pháp đã trú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy!

Bài viết số 6 lớp 9 đề 2: Nêu suy nghĩ của em về nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao

Bài làm

1. Diễn biến tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán cậu Vàng.
- Tình cảnh túng quẫn ngày càng đe dọa lão Hạc lúc này.
- Giàu lòng tự trọng, không nỡ tiêu phạm vào những đồng tiền cố dành dụm cho đứa con trai vì nghèo mà phẫn chí bỏ làng đi làm.
- Suy tính, đắn đo nhiều lần => Việc rất hệ trọng bởi cậu Vàng là người bạn thân thiết, là vật kỉ niệm của anh con trai còn lại.
- Day dứt ăn năn vì già bằng nấy tuổi mà còn đánh lừa một con chó. Cả đời ông già nhân hậu này nào đã nỡ lừa ai!
- Cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước. Mắt co rúm lại; Vết nhăn xô lại ép cho nước mắt chảy ra; Đầu ngọeo về một bên, miệngmãm mém mếu, hu hu khóc.
=> Một cõi lòng đang vô cùng đau đớn, đang xót xa ân hận.
- Lão Hạc lµ một người sống tình nghĩa, thủy chung, rất trung thực. Đặc biệt ta cµng thấm thía lòng thương con sâu sắc của người cha nghèo khổ
2. Nguyên nhân cái chết của lão Hạc.
- Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến cái chết như một hành động tự giải thoát.
=> Số phận cơ cực đáng thương của những người nông dân nghèo khổ trước CMT8.
- A. Đó là bi kịch của sự đói nghèo.
- B. Đó là bi kịch của tình phụ tử.
- C. Đó là bi kịch của phẩm giá làm người.
- Hay suy nghĩ và tỉnh táo nhận ra tình cảnh của mình lúc này.
- Tính cẩn thận, chu đáo và lòng tự trọng cao => âm thầm chuẩn bị chu đáo cho cái chết của mình từ khi bán cậu Vàng.
3. Thái độ tình cảm nhân vật tôi đối với lão Hạc.
- Thái độ: Say sưa.
- Tình cảm: Xót thương, đồng cảm, an ủi và chia sẽ.
=> Lòng nhân ái dựa trên sự chân tình và đồng khổ, hiểu đời, hiểu người và có lòng vị tha cao cả.
- Ngỡ ngàng: Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn.
- Chứng kiến cái chết đau đớn thì ông giáo lại cảm nhận: Cuộc đời...một nghĩa khác.
- Ông lão là người nhân hậu trung thực chưa đánh lừa một ai; Lần đầu tiên trong đời lão phải lừa cậu Vàng người bạn thân thiết của mình và cậu Vàng
phải chết thì giờ đây lão cũng phải chết theo kiểu một con chó bị lừa.
- Muốn trừng phạt càng chứng tỏ được tính trung
thực, lòng tự trọng đáng quý gây ấn tượng mạnh cho người đọc.
4. Nghệ thuật kể chuyện.
Diễn biến câu chuyện được kề bằng nhân vật tôi: Câu chuyện gần gũi, chân thực dẫn dắt tự nhiên, linh hoạt cốt truyện có thể kết hợp tự nhiện giữa kể và tả với hồi tưởng bộc lộ trử tình.
- Có nhiều giọng điệu: Vừa tự sự vừa trữ tình


Bài viết số 6 lớp 9 đề 3: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện “Chiếc lược ngà"

Bài làm

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một truyện cảmđộng về tình cha con của những gia đình Việt Nam mà ở đó “lớp cha trước, lớpcon sau, đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Trong truyện đoạn cảm độngnhất là đoạn “ba ngày nghỉ phép về quê của anh Sáu”.
Năm 1946, năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, anh Sáu lên đường theo tiếnggọi của quê hương. Bấy giờ, bé Thu, con gái anh chưa đầy một tuổi. Chín nămđằng đẳng xa quê, xa nhà, anh Sáu vẫn mong có một ngày trở về quê gặp lại vợcon. Thế rồi, kháng chiến thắng lợi, anh được nghỉ 3 ngày phép về thăm quê, mộtlàng nhỏ bên bờ sông Cửu Long. Về đến nhà, anh tưởng tượng bé Thu - con gái anhsẽ rất vui mừng khi được gặp cha. Giờ đây, nó cũng đã mười tuổi rồi còn gì. Mangmột nỗi niềm rạo rực, phấn chấn, anh nôn nóng cho mau về đến nhà.
Không chờ xuồng cập bến, anh đã nhảy lên bờ vừa bước, vừa gọi: “Thu! Con!” thậttha thiết. Ta co thể tưởng tượng nỗi vui sướng của anh như thế nào. Khi anh vừabước đi, vừa lom khom người xuống đưa tay chờ con. Thế nhưng ngược lại vớinhững điều anh Sáu mong chờ.
Bé Thu tròn mắt nhìn anh ngạc nhiên rồi bỏ chạy. Phản ứng của bé Thu khiến anhSáu sửng sờ, đau khổ. Còn gì đáng buồn hơn khi đứa con mà anh hết lòng thươngyêu và khắc khoải từng ngày để được gặp mặt, giờ đây trở nên xa lạ đến mức phũphàng ấy.
Thế rôì, anh Sáu tìm mọi cách gặp con để làm quen dần vì anh nghĩ rằng khi anhđi nó vừa mấy tháng tuổi nên nó lạ. Anh mong sao nó gọi một tiếng “ba”, vào ăncơm nó chỉ nói trống không “Vô ăn cơm!”
Bữa sau, cũng là ngày phép thứ hai, bé Thu trông hộ mẹ nồi cơm để chị Sáu chạymua thức ăn. Trước khi đi, chị Sáu dặn nó có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nồicơm quá to mà bé thu thì còn nhỏ, vậy mà khi nồi cơm sôi không tìm được cáchnào để chắt nước, loay hoay mãi, nó nhìn anh Sáu một lúc rồi kêu lên: “Cơm sôirồi, chắt nước dùm cái!” anh Sáu vẫn ngồi im, chờ đợi sự thay đổi của nó. Thếnhưng, nó nghĩ ra cách lấy vá múc ra từng vá nước chứ nhất định không chịu gọianh Sáu bàng “Ba”. Con bé thật đáo để!
Đến bữa ăn cơm, anh Sáu gắp cho bé Thu một cái trứng cá to, vàng bỏ vào chén.Lúc đầu nó để đó rồi bất thần hất cái trứng ra làm cơm đổ tung toé. Giận quá,không kìm được nữa, anh Sáu vung tay đánh vào mông nó. Thế là bé Thu vội chạyra xuồng mở “lòi tói” rồi bơi qua sông lên nhà bà ngoại.
Phép chỉ còn ngày cuối cùng, anh Sáu phải trở về đơn vị để nhận nhiệm vụ mới.Bao nhiêu mơ ước được hôn, ôm con vào lòng từ bấy lâu nay của anh Sáu giờ chỉcàng làm cho anh thêm đau lòng và gần như anh không còn để ý đến nó nữa.
Thân nhân, họ hàng đến chia tay anh cũng khá đông nên anh cứ bịn rịn mãi. ChịSáu cũng lo sắp xếp đồ đạc cho chồng, không ai quan tâm bé Thu đang đứng bơ vơmột mình bên cửa nhà. Thì ra nó theo bà ngoại trở về vì bà ngoại sang đây đểtiễn chân anh Sáu. Giờ này, trên gương mặt Thu không còn cái vẻ bướng bỉnh,ương ngạnh nữa , mà thoáng một nét buồn trông đến dễ thương. Nó nhìn mọi người,nhìn anh Sáu. Đến lúc mang ba lô và bắt tay với mọi người, anh Sáu mới nhìnquanh tìm bé Thu. Thấy con, dường như mọi việc trong ba ngày phép hiện lêntrong anh nên anh chỉ đứng nhìn con với bao nỗi xót xa ... cuối cùng, anh cũngphải nói lên lời chia tay với con mà không hy vọng bé Thu sẽ gọi một tiếng “ba”thiêng liêng ấy.Thật là đột ngột và không ngờ, bé Thu chạy đến bên anh Sáu vàtiếng “Ba!” được thốt lên thật cảm động biết nhường nào. Nó ôm chầm thật chặtnhư không muốn rời ba nữa. Nó khóc, khóc thật nhiều và thét lên những lời khiếnmọi người xung quanh đều xúc động: “Không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con!”
Sung sướng, hạnh phúc và cũng thật đau lòng, anh Sáu cũng chỉ biết ôm con vàkhóc cùng với con. Rồi cũng đến lúc phải chia tay, thật bịn rịn vô cùng. Vừamới nhận được tiếng “ba” của đứa con thân yêu cũng là lúc phải nghẹn ngào chiatay với con để trở về đơn vị làm tròn trách nhiệm khi đang ở quân ngũ.
Trước kia anh Sáu đã thương con, giờ đây anh càng thương con gấp bội. Bởi lẽanh đã hiểu lí do vì sao bé Thu quyết định từ chối không gọi anh bằng “ba” từba hôm nay.
Làm sao chấp nhận một người xa lạ mà khuôn mặt không giống trong tấm ảnh mà mẹnó thường ngày vẫn nói với nó đó là “ba” được. Chính vết sẹo quái ác kia đã làmcho bé Thu không nhận anh Sáu, hằn học với anh Sáu. Sau khi hiểu rõ nguyên nhâncủa vết sẹo hằn trên gương mặt của ba, bé Thu mới thấy hổ thẹn và ăn năn. Tìnhcảm cha con bỗng dâng đầy, tràn ngập trong lòng em. Tình cảm đó được thể hiệnbằng thái độ, cử chỉ dồn dập, gấp rút khi nó gọi và ôm chầm lấy anh Sáu.] Ba ngày phép ngắn ngủi nhưng lại rấtngặng nề với anh Sáu và bé Thu. Nghịch cảnh này là một trong muôn ngàn nghịchcảnh khác mà đã có biết bao gia đình phải ngậm ngùi vì những ngộ nhận đángthương. Đó cũng là một sự thật đau lòng của nước Việt Nam ta trong những năm kháng chiếnchống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Bài số 6 lớp 9 đề số 5 : Truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân VN thời kháng chiến chống thực dân Pháp?
Bài Viết SỐ 6 Lớp 9
Viết bài tập làm văn số 6 về tác phẩm Làng của Kim Lân

Bài làm
“Làng quê”, hai tiếng thật êm đềm và thân thuộc biết bao. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ hướng ngòi bút của mình về giếng nước, gốc đa, con đò… hướng về những người nông dân thật thà, chất phác. Kim Lân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn và khai thác rất thành công về đề tài này. Truyện ngắn “Làng” là một truyện ngắn thành công của Kim Lân gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Kim Lân vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống và con người ở nông thôn Việt Nam nên các truyện gắn của ông thường gây ấn tượng độc đáo, rất giản dị, chân chất về đề tài này. Truyện ngắn Làng cũng vậy, truyện ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc. Câu truyện xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu làng Chợ Dầu. Với những chuyển biết trong nhận thức và suy nghĩ, ông Hai đã trở thành một điển hình của người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
Như bao con người Việt Nam khác, ông Hai cũng có một quê hương yêu thương, gắn bó. Làng Chợ Dầu luôn là niềm tự hào và là kiêu hãnh của ông. Ông luôn khoe về làng mình, đức tính ấy như đã trở thành bản chất. Ông cũng như mọi người nông dân Việt Nam khác, có quan niệm rằng “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, đối với họ, không có bất cứ đâu đẹp hơn nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trước cách mạng, mỗi khi kể về làng, ông đều khoe về cái sinh phần của viên tổng đốc sừng sững ở cuối làng. Sau Cách mạng, làng ông đã trở thành làng kháng chiến, ông đã có nhận thức khác. Ông Hai không còn khoe về cái sinh phần ấy nữa mà ông lấy làm hãnh diện với sự cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê mình. Ông khoe làng có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”… Kháng chiến bùng nổ, ông Hai bất đắc dĩ phải rời làng đi tản cư. Trong những ngày buộc phải rời xa làng tâm trí ông luôn nhớ về nơi ấy, về những anh em đồng chí của mình, ông muốn “cùng anh em đào đường, đáp ụ, xẻ hào,khuân đá…’’.
Ở nơi tản cư, ông luôn đến phòng thông tin để theo dõi và mong ngóng tin tức về làng nhằm nguôi ngoai nỗi nhớ. Trong lúc mong tin làng, những tin vui chiến thắng ở khắp nơi khiến ông vui sướng vô cùng, “ruột gan cứ múa cả lên”. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà đi tản cư, ông Hai vô cùng sửng sốt, “cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được” . Đến khi nghe kể rành rọt, không thể không tin vào điều xấu ấy, niềm tin và tình yêu bấy lâu nay của ông về làng như sụp đổ. Ông đã “gầm mặt xuống”, đánh trống lảng rồi bước đi như kẻ trốn nợ. Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người nhưng lại không tin họ theo giặc. Mấy hôm liền, ông không dám đi đâu vì xấu hổ, luôn bị ám ảnh cái tinh khủng khiếp ấy và hay hốt hoảng giật mình. Những ngày này mâu thuẫn nội tâm trong con người ông Hai diễn ra một cách quyết liệt và ngày càng dâng cao. Đã có lúc ông nghĩ đến việc “quay về làng” nhưng ông đã dứt khoát “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tuy quyết định như thế nhưng ông vẫn rất đau đớn xót xa. Tất cả những cử chỉ của ông Hai khẳng định tình yêu làng của ông đã hòa quyện vào cuộc kháng chiến của dân tộc và ông sẽ gắn bó cả cuộc đời với nó bằng suy nghĩ và hành động. Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông trút nỗi lòng vào lời nói với đứa con út ngây thơ: “Bố con mình theo kháng chiến, theo Cụ Hồ con nhỉ?” để giãi bày tâm sự, trút bỏ, an ủi lòng mình. Đồng thời, ông cũng truyền cả tình yêu nước sang cho con mình và khẳng định tình cảm của bố con ông với kháng chiến, với Cụ Hồ là trước sau như một.
Đau khổ là thế, lo âu là thế nhưng cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính. Niềm vui trong ông Hai như vỡ òa. Ông chạy đi khoe ngay với bác Thứ rồi gặp bất cứ ai ông cũng khoe Tây đã đốt nhà mình như muốn chứng minh làng mình không theo giặc với tất cả niềm tin và tình cảm của ông. Đối với ông hai cũng như mọi người nông dân khác, con trâu, mảnh ruộng, gian nhà là vô cùng quý giá nhưng họ thà mất đi tất cả chứ không chịu mất nước và ý chí ý đã trở thành một truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta.
Cách mạng và sự nghiệp kháng chiến đã tác động mạnh mẽ, đem lại những nhận thức, những tình cảm mới lạ cho những người nông dân. Từ đó khiến họ nhiệt tình tham gia kháng chiến và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào lãnh tụ. Ở nhân vật ông Hai, tình cảm đẹp đẽ có tính chất truyền thống của người nông dân Việt Nam là tình yêu làng quê đã được nâng lên thành tình yêu nước. Sự hòa quyện và gắn bó của tình yêu quê hương và tình yêu đất nước là nét mới mẻ trong nhận thức của người nông dân, của quần chúng cách mạng trong giai đoạn văn học chống Pháp.
Với kếu cấu đơn giản, xoay quanh nhân vật ông Hai với tình yêu làng sâu sắc, “Làng” đã để lại trong lòng người đọc nhiều ý vị sâu sắc. Làng Nhà văn Kim Lân đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai với các phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Đồng thời nhà văn còn khôn khéo xây dựng tình huống thử thách làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả đặc biệt tài tình nội tâm của nhân vật với những suy nghĩ phức tạp, giằng xé. Tác giả đẩy các chi tiết đến cao trào rồi giải quyết một cách nhẹ nhàng, thỏa đáng và có hậu, tạo hứng thú và bất ngờ cho người đọc, người nghe. Cách sử dụng từ ngữ địa phương mộc mạc, gần gũi với nông dân trong đối thoại, giao tiếp kết hợp với sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ khiến những trang viết của Kim Lân thật gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc.
Nhân vật ông Hai gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại nhiều tình cảm tốt đẹp, sự yêu mến, trân trọng và cảm phục trong lòng người đọc. Tình yêu làng của ông Hai mang tinh chất truyền thống đã được nâng lên thành tình yêu nước nồng nàn như “ dòng suối đổ vào sông, dòng sông đổ vào dải trường giang Vônga, dòng sông Vônga đi ra biển..”. Qua nhân vật ông Hai như là nông dân với những phẩm chất tốt đẹp bước từ đời thực vào tác phẩm, có được những biểu hiện cụ thể, sinh động vè tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.
“Làng” đã trở thành một truyện ngắn đặc sắc, Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện những chuyển biến mới mẻ trong nhận thức và tình cảm của người dân Việt Nam. Nhân vật ông Hai đã trở thành một hình tượng điển hình cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác nhưng luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, yêu đất nước. Họ đã góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng và là nhân tố trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bản thân mỗi chúng ta cần phải học tập tấm gương của họ, ngày càng yêu thương quê hương, đất nước mình hơn.

Chúc các bạn làm bài thật tốt ! Đạt điểm cao .

Ngoài các bài viết văn mẫu cho bài số 6 lớp9 ở trên các bạn có thể đọc thêm các dàn ý của các đề còn lại đề có thể làm bài tốt hơn :
HƯỚNG DẪN VIẾT BÀI Số 6 Lớp 9 Văn Nghị Luận
Đề 1: Suy nghĩ của em về tình mẫu tử trong đoạn trích “Tronglòng mẹ” ( “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng ).
I. Mở bài:
- “Những ngày thơ ấu” – cuốn hồi kí tự truyện ghi lại nhữngtâm sự về một tuổi thơ cay đắng, bất hạnh của Nguyên Hồng.
- Đoạn trích “Trong lòng mẹ” đã mang đến cho người đọc nhữngtrang viết cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng.
II. Thân bài:
1. Hoàn cảnh đángthương của bé Hồng:
- Mồ côi cha từ nhỏ, mẻ bất đắc dĩ phải đi tha hương cầuthực.
- Sống trong sự ghẻ lạnh của người cô, luôn thiếu thốn tìnhyêu thương.
- Vô cùng nhớ mẹ, khát khao được gặp mẹ.
2. Tình mẫu tử củamẹ con bé Hồng:
a. Tình yêu thươngcủa bé Hồng dành cho mẹ:
* Khi mẹ đi xa:
- Đau đớn, xót xa, nhớ mẹ.
- Càng thường mẹ hơn khi người cô đay nghiến, nói xấu mẹ.
- Luôn tin tưởng rằng “những rắp tâm tanh bẩn” không thể làmthay đổi tình cảm mà em dành cho mẹ.
- Thương mẹ vô cùng ( khi nghe thấy mẹ phải sống trong nghèokhổ, khi thấy mẹ không dám vượt lên trên những hủ tục nặng nề để sống đànghoàng).
- Căm giận những hủ tục phong kiến chà đạp lên quyền đượchưởng hạnh phúc của con người.
* Khi mẹ trở về:
- Mừng khôn xiết ( mới chỉ nhìn thấy “thoáng qua” một ngườiphụ nữ đang ngồi trên mà đã nghĩ ngay đó là mẹ mình, em gọi mẹ, chạy theo mẹ).
- Hạnh phúc tột cùng khi được ngồi trong lòng mẹ.
b. Tình yêu thươngcủa mẹ dành cho bé Hồng:
- Vượt lên trên dư luận, trở về trong ngày giỗ đầu của chồngđể được gặp con.
- Vui mừng khôn xiết khi được ôm con vào lòng, âu yếm con.
- Mong muốn được chăm sóc, yêu thương con.
3. Suy nghĩ vềtình mẫu tử:
- Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng, sâu sắc, mãnhliệt.
- Là tình cảm thiêng liêng của mỗi con người.
- Trong hoàn cảnh éo le, tình mẫu tử càng trở nên sâu sắc vàcảm động hơn: Nó vượt lên cảnh ngộ, nó bất chấp sự dập vùi, nó chân thành vàgiản dị, nó đem hạnh phúc và niềm tin đến cho con người trong cảnh đời khốnkhổ, trái ngang.
III. Kết bài:
- Đoạn trích cho ta biết cảm thông, chia sẻ với những ngườisống thiếu tình yêu thương của mẹ.
- Ta thêm trân trọng mẹ, trân trọng tình yêu thương của mẹ.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề 2: Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em những suynghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Namthời kháng chiến chống thực dân Pháp?
I. Mở bài:
- Kim Lân – nhà văn thành công về đề tài người nông dân ViệtNamtrước Cách mạng.
- Truyện ngắn “Làng” đã thể hiện sâu sắc tình yêu làng, yêunước, yêu cách mạng của những người nông dân Việt Nam, thể hiện “những chuyểnbiến mới” trong tình cảm của họ.
II. Thân bài:
1. Giải thích“chuyển biến mới” trong tình cảm của người nông dân: tình cảm yêu làng, yêunước của người dân quê Việt Nam trong không chiến chống Pháp đã có những nétmới mẻ so với những tình cảm truyền thống ( yêu làng gắn với yêu nước, tích cựctham gia kháng chiến, theo Cụ Hồ, đánh đuổi bọn Tây, tiêu diệt bọn Việt gianbán nước – đó là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước).
2. Những biển hiện của những “chuyển biến mới” trong tình cảm củangười nông dân:
a. Ở nhân vật ôngHai: (tình yêu làng quê gắn với tình yêu đất nước)
- Thể hiện trong cách khoe làng mới mẻ (kiêu hãnh, tự hào vềviệc làng theo kháng chiến, tích cực tham gia kháng chiến…).
- Thể hiện bằng hành động cụ thể ( tham gia tự vệ để bảo vệlàng, đào hào, đắp ụ phục vụ kháng chiến, đi tản cư, hăng say sản xuất…).
- Nhớ làng khi đi tản cư, mong được trở về cùng du kích lậplàng kháng chiến.
- Lắng nghe tin tức kháng chiến: đau đớn, tủi nhục khi nghetin làng giặc; căm thù làng khi nghe tin làng theo Tây (“Làng thì yêu thật,nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”); sung sướng , hả hê khi nghe tin cảichính ( khoe nhà bị Tây đốt…).
b. Ở những nhânvật phụ:
- Những người phụ nữ tản cư: khinh bỉ những kẻ theo giặc“cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.
- Thằng cu Húc dù còn nhỏ đã có tinh thần kháng chiến “ủnghộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm”.
- Mụ chủ nhà khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc thì đuổikhéo gia đình ông Hai, khi nghe tin cải chính thì vui vẻ, thân thiện, cởi mở,mời mọc…
3. Suy nghĩ vềnhững “chuyển biến mới” trong tình cảm của người nông dân:
- Chuyển biến tình cảm phù hợp với nhận thức, với chuyểnbiến của thời đại, với yêu cầu của công cuộc giữa nước ( tình cảm yêu nước rộnglớn hơn, bao trùm tình yêu làng quê, yêu nước gắn với yêu kháng chiến, ủng hộkháng chiến…)
- Cảm động trước tình cảm yêu làng, yêu nước chân thành củanhững người nông dân chất phác, hồn hậu.
- Trân trọng lòng trung thành tuyệt đối với Cách mạng, vớiCụ Hồ, với kháng chiến.
- Yêu làng, yêu quê hương, đất nước – đó là tình cảm thiêngliêng của mỗi con người.
- Trong hoàn cảnh chiến tranh, tình yêu làng, yêu nước càngtrở nên sâu sắc và cảm động hơn.
- Tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng tạo nên sức mạnh,nghị lực, niềm tin để con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
III. Kết bài:
- Những chuyển biến mởi mẻ trong tâm hồn những người nôngdân trong kháng chiến chống Pháp càng giúp ta thêm hiểu, thêm trân trọng vẻ đẹptâm hồn của những con người mộc mạc, giản dị…
- Họ đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng chung của toàndân tộc.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề 3: Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hộicũ qua nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
I. Mở bài:
- Từ xa xưa, người phụ nữ đã trở thành một đề tài quen thuộctrong các tác phẩm văn chương, trong ca dao, trong những truyện dân gian.
- Đến văn học trung đại: hình ảnh người phụ nữ đã được thểhiện cụ thể, sâu sắc hơn. Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người congái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn và sốphận đầy đau khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
II. Thân bài:
1. Vũ Nương làngười phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời lại đầy đau khổ, bất hạnh:
- Là một người phụ nữ đẹp: vẻ đẹp hình thức (tư dung tốtđẹp); vẻ đẹp nhân cách ( yêu thương và thủy chung với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng,thương con, hết lòng chăm lo hạnh phúc gia đình).
- Phải chịu những đau khổ, bất công, ngang trái: bị chồngnghi oan mà không nghe nàng thanh minh, giãi bày; bị mắng nhiếc thậm tệ rồiđuổi đi, đau khổ tột cùng, nàng phải tìm đến cái chết.
- Không tự bảo vệ được hạnh phúc của mình.
2. Suy nghĩ vềthân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
- Sống cam chịu, nhẫn nhục…(sự cam chịu, nhẫn nhục càng làmcho những bất công, ngang trái đè nặng lên cuộc đời, số phận của họ).
- Không thể quyết định được tương lai và hạnh phúc của mình( Vũ Nương, người phụ nữ trong “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, Thúy Kiềutrong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du…)
- Hiểu nguyên nhân gây ra nỗi bất hạnh cho họ ( chế độ đathê, tư tưởng trọng nam khinh nữ, chiến tranh…đã gây ra những bất hạnh, oantrái…cho người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, trong “Chinh phụ ngâm” của ĐoànThị Điểm…).
- Cảm thương cho số phận đau khổ, bất hạnh của những ngườiphụ nữ trong xã hội phong kiến.
III. Kết bài:
- Qua cuộc đời, số phận đầy đau khổ của Vũ Nương, người đọccàng hiểu hơn những bất hạnh, oan trái mà người phụ nữ phải chịu đựng trong xãhội phong kiến.
- Liên hệ với hiện tại: người phụ nữ ngày càng được bìnhđằng, được tôn trọng…từ đó, thêm trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sốnghiện tại.
- Mơ ước về tương lai: Người phụ nữ không còn phải chịunhững bất công, đau khổ…
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề 4: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranhqua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
I. Mở bài:
- Tình cảm gia đình là những tình cảm thân thương, gắn bótrong tâm hồn của mỗi con người, nó đã trở thành một đề tài quen thuộc trongvăn học.
- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là bàica về tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc.
II. Thân bài:
1. Tình cảm củacha con ông Sáu:
a. Chiến tranh đãgây ra cảnh chia li cho gia đình ông Sáu:
- Ông Sáu đi kháng chiến khi đứa con đầu lòng ( bé Thu )chưa đầy một tuổi.
- Ở chiến khu, ông nhớ con nhưng chỉ được nhìn con qua tấmảnh nhỏ.
- Bé Thu dần lớn lên trong tình yêu của má nhưng em chưa mộtlần được gặp ba, em chỉ biết ba qua tấm hình chụp chung với má.
b. Chiến tranh đãkhông thể chia cắt được tình cảm gia đình, tình phụ tử thiêng liêng:
* Bé Thu rất yêuba:
- Em cương quyết không nhận ông Sáu là cha ( khi thấy ôngkhông giống với người trong tấm hình chụp chung với má).
- Em phản ứng một cách quyết liệt, thậm chí còn xấc xược,bướng bỉnh ( để bảo vệ tình yêu em dành cho ba…).
- Em ân hận trằn trọc không ngủ được khi được ngoại giảnggiải.
- Lúc chia tay, em gọi “ba”, hôn cả lên vết thẹo dài đã từnglàm em sợ hãi, em không cho ba đi…
* Ông Sáu luôndành cho bé Thu một tình yêu thương đặc biệt:
- Khi xa con, ông nhớ con vô cùng.
- Khi được về thăm nhà, ông không đi đâu, chỉ quanh quẩn ởnhà để được gần con.
- Ông vô cùng đau khổ khi thấy con lạnh lùng ( khi con cươngquyết không chịu gọi “ba”).
- Ông dồn hết tình yêu thương con vào việc tự tay làm chiếclược ngà cho con.
- Ân hận vì đã đánh con.
- Trước khi nhắm mắt, ongo cố gửi cho con kỉ vật cuối cùng…
2. Suy nghĩ vềtình cảm gia đình trong chiến tranh:
- Cảm động trước tình cha con sâu nặng.
- Là tình cảm thiêng liêng của mỗi con người.
- Trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, tình cảm gia đìnhcàng được thử thách càng trở nên thiêng liêng hơn.
- Tình cảm gia đình tạo nên sức mạnh, nghị lực, niềm tin đểcon người vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
- Tình cảm gia đình, tình cha con đã hòa quyện trong tình yêuquê hương đất nước.
III. Kết bài:
- “Chiếc lược ngà” – một câu chuyện xúc động về tình phụ tửthiêng liêng trong chiến tranh.
- Câu chuyện thêm một lần nữa khẳng định tình cảm gia đình,tình cha con…luôn bất diệt trong mọi hoàn cảnh.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề 5: “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là mộttruyện ngắn giàu chất thơ.
I. Mở bài:
- Nguyễn Thành Long – cây bút chuyên viết truyện ngắn và kíthành công với những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng.
- “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970, làmột truyện ngắn thành công bởi đã để lại trong lòng độc giả những rung cảm khóquên về một truyện “giàu chất thơ”.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu ngắngọn nội dung của tác phẩm:
“Lặng lẽ Sa Pa” kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa các nhân vật:ông họa sĩ, cô kĩ sư, anh thanh niên làm công tác khí tượng thủy văn kiêm vậtlí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m.
2. Chất thơ củatruyện:
a. Vẻ đẹp củathiên nhiên Sa Pa: được tái hiện một cách sinh động, thơ mộng ( hìnhảnh những cây thông rung tít trong nắng như những ngón tay bằng bạc, mây cuộntròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương…; ngôn ngữ miêu tả thiên nhiênrất gợi cảm, giàu chất tạo hình càng làm tăng thêm vẻ đẹp thơ mộng của cảnh,…)
b. Vẻ đẹp tâm hồncủa những con người bình dị:
- Nhân vật anh thanh niên: yêu cuộc sống ( yêu cái đẹp, sốngngăn nắp, trồng hoa…); tấm lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm cao với côngviệc; anh hiểu được ý nghĩa của công việc mình làm; khiêm tốn, anh luôn quantâm tới người khác một cách tự nhiên, chân thành…
- Các nhân vật phụ xuất hiện trực tiếp ( ông họa sĩ, bác láixe, cô kĩ sư): tâm hồn tinh tế, nhạy cảm; sự quan tâm tới mọi người,…
- Các nhân vật phụ xuất hiện gián tiếp qua lời giới thiệucủa anh thanh niên ( anh cán bộ nghiên cứu sét, bác kĩ sư nông nghiệp…): tựnguyện hi sinh hạnh phúc riêng của mình vì lợi ích chung của cộng đồng; niềmsay mê công việc…
III. Kết bài:
Vẻ đẹp của thiên nhiên, con người Sa Pa đã tạonên chất thơ, sức hấp dẫn cho truyện.
LihatTutupKomentar